Thành tựu giáo dục, y tế và đời sống 66 năm sau Cách mạng Tháng Tám


(Chinhphu.vn) - Cách mạng Tháng Tám đã đưa Việt Nam trở thành nhà nước cộng hòa dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, ngày nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vị thế của đất nước đã có nhiều thay đổi cùng  với sự phát triển của giáo dục, y tế và đời sống.
 

Giáo dục

 

Trước Cách mạng Tháng Tám, chế độ thực dân đã thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề thống trị. Trên 90% dân số từ 6 tuổi trở lên mù chữ. Cả nước có 5.755 trường phổ thông, nhưng có tới 5.680 trường là trường vỡ lòng và tiểu học; chỉ có 72 trường trung học cơ sở, 3 trường trung học phổ thông, với 14,5 nghìn giáo viên (trong đó giáo viên trung học cơ sở có 1 nghìn, trung học phổ thông chỉ có 300 người); với 720,8 nghìn học sinh (trong đó 40% là vỡ lòng, còn lại phần lớn là tiểu học).

 

Cả nước có 4 trường trung cấp chuyên nghiệp với 175 giáo viên và khoảng 3 nghìn học sinh. Cả Đông Dương có 3 trường Đại học với 60 giảng viên và khoảng 1.222 sinh viên. Tổng số người đi học của cả nước khoảng 725 nghìn người, bình quân 1 vạn dân chỉ có 321 người. Đáng lưu ý, hầu hết số người đi học bậc trên là con em thực dân, phong kiến, rất hiếm hoi mới có con em người lao động.

 

Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền mới cùng một lúc phải chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Ngay trong những năm kháng chiến chống ngoại xâm lần thứ nhất và trong những năm chống chiến tranh phá hoại, Đảng và Nhà nước đã đưa hàng vạn con em người lao động đi học tập và đào tạo ở nước ngoài để chuẩn bị lâu dài cho công cuộc xây dựng đất nước. Từ rất sớm, Đảng và Nhà nước đã coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa của khoa học, công nghệ, là động lực của tăng trưởng và phát triển đất nước.

 

Cả nước hiện có 12.678 trường mẫu giáo, với 157,3 nghìn giáo viên, trên 3 triệu học sinh. Có 28,56 nghìn trường phổ thông, với 820,4 nghìn giáo viên, 14,8 triệu học sinh (tiểu học 6,9 triệu, trung học cơ sở 5 triệu, trung học phổ thông 2,8 triệu). Có 282 trường trung cấp chuyên nghiệp, 685 nghìn học sinh. Có 414 trường đại học, cao đẳng, với 71,5 nghìn giảng viên, trên 2 triệu sinh viên.

 

Biểu đồ 1- GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO NĂM 2010- 2011 SO VỚI TRƯỚC CM (lần)

 

Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê

 

Hiện tất cả 63/63 tỉnh, thành phố đã đạt phổ cập trung học cơ sở. Chỉ số học vấn, một trong 3 chỉ số thành phần của chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt 0,810, cao hơn tỷ lệ trung bình 0,708 của thế giới, trong đó tỷ lệ người lớn biết chữ của Việt Nam đạt 90,3%, đứng thứ 69/151 nước và vùng lãnh thổ, cao hơn tỷ lệ 63,9% của toàn thế giới. Chỉ số học vấn cùng với chỉ số tuổi thọ đã giúp cho Việt Nam có HDI cao hơn nhiều nước có GDP bình quân đầu người cao hơn.

 

Để thực hiện mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2011- 2020 là cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở phát triển khoa học- công nghệ và giáo dục- đào tạo là một đột phá chiến lược. Thủ tướng Chính phủ, trong bài viết “Thực hiện tốt 3 khâu đột phá Chiến lược mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra là nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011- 2016” đã chỉ ra: “Trong 5 năm tới, phải tập trung chỉ đạo xây dựng và triển khai chương trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Đặc biệt coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Lấy nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo làm trục xoay chính, kết hợp với mở rộng quy mô hợp lý. Quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính; thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”.

 

Y tế và đời sống

 

Trước Cách mạng Tháng Tám, cả nước chỉ có 771 cơ sở khám chữa bệnh, phục vụ chủ yếu cho thực dân, phong kiến. Tổng số giường bệnh có 13,9 nghìn, bình quân 1 vạn dân có 6,1 giường. Tổng số bác sỹ có 212 người, bình quân 1 vạn dân chỉ có 0,094 bác sỹ. Tổng số y sỹ có 439 người. Số dược sỹ trung cấp và cao cấp của cả nước chỉ có 32 người. Nghèo đói thì hay ốm đau, lại với một hệ thống y tế như thế, nếu ốm đau thì rất dễ chết. Số người chết hàng năm vì đói rét, ốm đau không ít, mặc dù tỷ lệ sinh của dân số rất cao.

 

Sau Cách mạng Tháng Tám, sự nghiệp y tế của đất nước đã phát triển mạnh mẽ. Cả nước hiện có 13.455 cơ sở khám, chữa bệnh, với 234 nghìn giường bệnh; bình quân 1 vạn dân có 20,7 giường bệnh (không kể số giường của trạm y tế xã, phường, thị trấn và trạm y tế các cơ quan). Tổng số bác sỹ là 62,5 nghìn người; bình quân 1 vạn dân có 7,2 bác sỹ. Cả nước có 53,3 nghìn y sỹ, 75,9 nghìn y tá, 27 nghìn nữ hộ sinh, 5,7 nghìn dược sỹ cao cấp, 16,5 nghìn dược sỹ trung cấp, 8,3 nghìn dược tá.

 

Biểu đồ 2- Y TẾ NĂM 2010 SO VỚI TRƯỚC CM (lần)

 

Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê

 

Với hệ thống y tế như trên, nên việc phòng chống dịch bệnh đã đạt được những kết quả tích cực. Số người được bảo hiểm y tế tăng nhanh trong những năm gần đây để tiến tới thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm, hiện còn 17%. Tuổi thọ của người dân tăng nhanh- hiện đạt 74,3 tuổi, đứng thứ 54/182 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, cao hơn nhiều so với thứ bậc 129 về GDP bình quân đầu người, cao hơn nhiều tuổi thọ bình quân 67,5 tuổi của toàn thế giới, góp phần quan trọng để HDI của Việt Nam cao hơn những nước có GDP bình quân đầu người cao hơn.

 

Một trong những kết quả nổi bật về đời sống là giảm tỷ lệ đói nghèo. Tỷ lệ nghèo chung (theo chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới) đã giảm nhanh (năm 2002 là 28%, năm 2004 là 19,5%, năm 2006 là 16%, năm 2008 là 14,5%); theo chuẩn nghèo của Chính phủ thời kỳ 2006- 2010 cũng giảm khá (2004 là 18,1%, 2006 là 15,5%, 2007 là 14,8%, 2008 là 13,4%, 2009 là 12,3%).

Minh Ngọc

TỔNG LƯỢT TRUY CẬP: 000000024710233

TRUY CẬP HÔM NAY: 14923

ĐANG ONLINE: 93